Tên chính thức của tác phẩm là ‘Kanagawa oki nami ura’, hay ‘Dưới con sóng ngoài khơi Kanagawa’, và đây là bản in đầu tiên của loạt ‘Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ’, thuộc về phong cách và truyền thống của ukiyo-e [phù thế hội].
Katsushika Hokusai, ‘Dưới con sóng ngoài khơi Kanagawa (Kanagawa oki nami ura)’
từ series ‘Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ (Fugaku sanjurokkei)’ (khoảng 1830–32).
Bộ sưu tập Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, New York.
Được tạo ra vào khoảng năm 1830 và 1832 trong thời kỳ Edo của Nhật Bản, bản in này mô tả ba chiếc thuyền chạm trán với một con sóng khổng lồ, Núi Phú Sĩ ở phía xa. Tên chính thức của tác phẩm là ‘Kanagawa oki nami ura’, hay ‘Dưới con sóng ngoài khơi Kanagawa’, và đây là bản in đầu tiên của loạt ‘Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ’, thuộc về phong cách và truyền thống của ukiyo-e [phù thế hội], một thể loại nghệ thuật trang trí của Nhật Bản bao gồm các bản in khắc gỗ và tranh vẽ mô tả những người bình thường (thường là tầng lớp xã hội thấp hơn, như diễn viên và kỹ nữ) cũng như phong cảnh, hệ thực vật và động vật.
Góc nhìn lơ lửng, mặt phẳng của màu sắc và cách thể hiện tỉ mỉ, rõ ràng đều là những đặc điểm chung của thể loại này và vẫn được coi là nét đẹp đặc trưng mang tính lịch sử của Nhật Bản.
Katsushika Hokusai, ‘Mưa rào dưới đỉnh (Sanka hakuu)’ từ series “Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ
(Fugaku sanjurokkei)” (khoảng 1830–33). Bộ sưu tập Viện Nghệ thuật Chicago.
Hokusai sinh năm 1760 trong một gia đình nghệ nhân và bắt đầu vẽ tranh – theo một số lời kể – từ năm sáu tuổi. Ông học việc với một thợ khắc gỗ ở tuổi 14, và ở tuổi 18, ông gia nhập xưởng vẽ của Katsukawa Shunshō, một nghệ sĩ làm việc theo phong cách ukiyo-e, tập trung vào hình ảnh các diễn viên, kỹ nữ và những nhân vật bình thường khác ở các thành phố của Nhật Bản.
Loạt bản in đầu tiên của Hokusai, mô tả các diễn viên Kabuki, được xuất bản vào năm 1779. Ông tiếp tục làm việc theo cách thông thường cho đến đầu những năm 1790, thời điểm mà ông bắt đầu thử nghiệm với phong cách và bố cục. Điều này bao gồm việc áp dụng nghệ thuật châu Âu mà ông đã gặp trong các bản khắc đồng của Pháp và Hà Lan. Chúng đã xâm nhập vào đất nước Nhật Bản mặc dù có chính sách cô lập quốc gia nghiêm ngặt, cuối cùng đã kết thúc vào giữa những năm 1850.
Katsukawa Shunsho, ‘Đô vật Sumo của nhóm miền Đông: Kurateyama Yadayû và
Izumigawa Rin’emon’ (1775–1785). Bộ sưu tập Viện Nghệ thuật Chicago.
Katsushika Hokusai, chỉ là một trong những cái tên mà nghệ sĩ này được biết đến. Ông thường xuyên sử dụng biệt danh mới như một phần của cuộc sống và quá trình thực hành của mình, trải qua ít nhất 30 lần lặp lại trong suốt cuộc đời. Mặc dù việc sử dụng các tên khác nhau không phải là điều bất thường đối với các nghệ sĩ Nhật Bản trong thời kỳ đó, nhưng điều này đã đưa nó lên một tầm cao mới. Nhìn lại, những thay đổi thường xuyên này đã hỗ trợ các học giả và nhà sử học trong việc mã hóa các giai đoạn trong cuộc đời và sự nghiệp của nghệ sĩ. Ông bắt đầu sử dụng tên “Hokusai” vào khoảng đầu thế kỷ XIX, đây vẫn là cái tên được biết đến rộng rãi nhất của ông.
Ngay cả với sự nghiệp kéo dài hơn 70 năm, quá trình thực hành của Hokusai không gì khác ngoài sự phi thường. Theo ước tính, tác phẩm của ông lên tới hơn 30.000, bao gồm tranh vẽ, phác họa và bản in. Mặc dù có thể tìm thấy cách nhìn sâu sắc về lịch sử sáng tác nghệ thuật Nhật Bản và quá trình phát triển sự nghiệp của Hokusai trong nhiều tác phẩm của ông, ‘Dưới con sóng lớn ngoài khơi Kanagawa’ vẫn tiếp tục thu hút sự chú ý của thế giới, gần hai thế kỷ sau khi ra đời.
Sau đây là ba sự thật ít được biết đến về bức tranh mang tính biểu tượng này.
Một trong những yếu tố hấp dẫn nhất trong ‘Dưới con sóng lớn ngoài khơi Kanagawa’ của Hokusai là cách sử dụng màu xanh lam sống động và phong phú. Mặc dù ngày nay chúng ta có thể không coi những sắc thái này là kỳ lạ hay đáng chú ý, nhưng vào thời điểm đó, sự phát triển của một sắc xanh lam vững vàng là tiên phong trong khám phá khoa học.
Vào khoảng năm 1705, nhà sản xuất màu người Thụy Sĩ Johann Jacob Diesbach bắt đầu tạo ra một loại màu đỏ và vô tình sử dụng một hợp chất có chứa dầu do nhà giả kim người Đức Johann Konrad Dippel tạo ra, người mà ông chia sẻ phòng thí nghiệm để tiết kiệm tiền. Kết quả ngoài ý muốn là một màu xanh lam sống động và ổn định (có nghĩa là không dễ phai màu hoặc xuống cấp), sau này được gọi là màu xanh Phổ. Trước đây, người ta chỉ có thể tạo ra những sắc thái tương tự bằng cách nghiền nát loại đá quý Lapis Lazuli cực kỳ đắt tiền, được lấy từ những ngọn núi ở Afghanistan.
Sắc tố mới đã tạo nên một “cơn sốt lam” lan rộng khắp châu Âu, nó xuất hiện ở mọi thứ, từ quần áo, tranh vẽ đến giấy dán tường. Ngay cả lá trà cũng được nhuộm theo mốt, một hành động cực kỳ độc hại. Phải đến đầu những năm 1800, khi một doanh nhân Trung Quốc phát triển một phiên bản mới của công thức, thì màu này mới xuất hiện trên thị trường châu Á. Mặc dù vào thời điểm đó, Nhật Bản vẫn duy trì các quy định nhập khẩu nghiêm ngặt, nhưng màu xanh lam đã sớm xuất hiện trong bối cảnh nghệ thuật in ấn ở Osaka.
Sự ra đời của màu xanh lam đã gây ra những cơn địa chấn tương tự như ở châu Âu, với các nghệ sĩ áp dụng màu này một cách rộng rãi, bao gồm cả Hokusai. Người Nhật gọi nó là “Bero”, bắt nguồn từ “Berlyns blaauw”, tiếng Hà Lan có nghĩa là “Berlin Blue” [Màu xanh lam Berlin] (Hà Lan được miễn trừ đặc biệt để giao thương qua một cảng ở Nagasaki). Nhóm nghiên cứu khoa học của Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan đã tiến hành phân tích quang phổ đối với phiên bản ‘Dưới con sóng lớn ngoài khơi Kanagawa’ của bảo tàng và phát hiện ra rằng thay vì áp dụng hoàn toàn màu xanh mới khi đó, các thợ in đã tỉ mỉ phủ lên nó một lớp sắc tố truyền thống hơn làm từ cây chàm, sắc thái giống như thép.
Kết luận là lần in đầu tiên bao gồm hỗn hợp màu xanh Phổ và chàm, lần thứ hai phủ màu xanh Phổ nguyên chất để tạo hiệu ứng. Kết quả là những gì chúng ta thấy ngày nay: một gợn sóng năng động của các sắc thái xanh trên bề mặt nước, truyền tải cảm giác chuyển động mạnh mẽ.
Khối in (khối gỗ). Khối nét (omohan) được khắc cho bản sao hiện đại (2017) của ‘Dưới con sóng lớn
ngoài khơi Kanagawa’ của Katsushika Hokusai. © Bảo tàng Anh Ủy thác.
Người ta cho rằng ban đầu có 1.000 bản ‘Dưới con sóng lớn ngoài khơi Kanagawa’ được in, và cuối cùng tổng cộng có hơn 8.000 bản được sản xuất. Tuy nhiên, những bản in này, và ukiyo-e nói chung, không được coi là “mỹ thuật” ở Nhật Bản. Chúng được sản xuất và bán với giá rẻ, và thường được coi là thiết kế mang tính thương mại. Vì lý do này, nhiều bản in ban đầu không được chăm sóc tốt, hầu hết đều bị hư hỏng hoặc đơn giản là bị vứt đi. Trong số hàng nghìn bản được sản xuất ban đầu, ước tính số lượng vẫn còn tồn tại chỉ là hàng trăm. Điều làm cho các bản in trở nên quý hiếm hơn nữa là thực tế các bản khắc gỗ thường được sử dụng cho đến khi hỏng, nghĩa là các phiên bản sau của bản in có dấu hiệu hao mòn và hư hỏng.
Cho đến khi Nhật Bản mở một số cảng của mình sang các quốc gia khác vào năm 1859, một làn sóng ukiyo-e và các loại hình nghệ thuật khác của Nhật Bản đã lan rộng khắp phần còn lại của thế giới. Chúng thực sự cuốn hút, trở thành mặt hàng quà lưu niệm và xuất khẩu phổ biến, dẫn đến sự quan tâm mới đối với ngành công nghiệp này. Mặc dù được coi là một hình thức nghệ thuật thô sơ, cái đẹp của những bản in khắc gỗ này được phương Tây coi là nghệ thuật tinh túy của Nhật Bản. Đây là một quan niệm vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
Sự ám ảnh với ukiyo-e và đặc biệt là ‘Dưới con sóng lớn ngoài khơi Kanagawa’ của Hokusai vẫn còn mạnh mẽ. Năm 2023, một phiên bản xuất sắc của bức tranh này đã được bán đấu giá tại Christie’s New York, đạt 2,76 triệu USD, cao hơn gấp bội so với giá gốc, tương đương một bát mì khiêm tốn.
Vincent van Gogh, ‘Đêm đầy sao’ (1889). Bộ sưu tập Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại, New York.
Ảnh hưởng quốc tế
Sự du nhập của nghệ thuật, thủ công mỹ nghệ và các vật thể văn hóa khác của Nhật Bản vào châu Âu thế kỷ XIX đã có ảnh hưởng sâu sắc, dẫn đến sự nổi lên của “La Japonaise” hoặc “Japonisme”, một thuật ngữ tiếng Pháp ám chỉ sự cuồng nhiệt đối với mọi thứ đến từ Nhật Bản. Hiệu ứng của cơn sốt này được thấy rộng rãi trong tác phẩm của những nghệ sĩ theo trường phái Ấn tượng, như Claude Monet đưa trang phục truyền thống của Nhật Bản và quạt vào bức tranh về vợ mình, có tựa đề ‘Camille Monet trong trang phục Nhật Bản’ (1876). Sau khi chuyển đến Giverny vào năm 1883, ông đã thêm một cây cầu kiểu Nhật vào khu vườn của mình, nó trở thành một chủ thể cố định trong nhiều bức tranh của ông.
Lấy cảm hứng cụ thể từ các bản khắc gỗ, Mary Cassatt đã tạo ra một loạt các bản khắc sử dụng các trường màu, đường nét và phối cảnh tương tự, như có thể thấy trong ‘Maternal Caress’ [Sự chăm sóc của mẹ] (1890–91) của bà.
Claude Monet, ‘La Japonaise (Camille Monet trong trang phục Nhật Bản)’
(1876). Bộ sưu tập Bảo tàng Mỹ thuật, Boston.
Những suy xét gần đây về bức ‘Dưới con sóng lớn ngoài khơi Kanagawa’ của Hokusai và ảnh hưởng của nó đã kết nối hình tượng này với một tác phẩm nghệ thuật khác đang cạnh tranh cho vị trí nổi tiếng nhất trên toàn thế giới: ‘Đêm đầy sao’ (1889) của Vincent van Gogh. Từ lâu người ta đã biết rằng Van Gogh ngưỡng mộ và sưu tập các bản in của Nhật Bản, nhưng vào năm 2018, Martin Bailey, một chuyên gia về Van Gogh, phóng viên của The Art Newspaper, đã xuất bản một bài viết kết nối hai tác phẩm mang tính biểu tượng này.
Bailey trích dẫn những lá thư mà họa sĩ viết cho em trai mình là Theo, (“Những con sóng [của Hokusai] là những móng vuốt, con thuyền bị mắc kẹt trong chúng, em có thể cảm nhận được điều đó”) và nhận thấy sự tương đồng trong việc sử dụng màu xanh lam thật phong phú và các bố cục xoáy. Ông cho rằng cuộc gặp gỡ của Van Gogh với nghệ sĩ và tác phẩm ukiyo-e đã truyền cảm hứng, có thể có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoàn thành ‘Đêm đầy sao’.
Bài viết của Annikka Olsen
Nguồn: Artnet
Lược dịch bởi Viet Art View