Claude Monet đã vẽ hơn 250 bức tranh về loài hoa này.
Claude Monet, Hoa súng (1906), trích. Hình ảnh từ Viện Nghệ thuật Chicago.
Năm 1914 là một năm rất khó khăn đối với Monet. Người vợ yêu dấu của ông qua đời, bệnh đục thủy tinh thể làm mờ mắt ông, những cơn đau răng đeo bám ông, và châu Âu đã lao đầu vào cuộc chiến. Chẳng bao lâu sau, con trai ông sẽ ra tiền tuyến và những mặt hàng thiết yếu đối với ông – thuốc lá và than – trở nên khan hiếm.
Monet rút lui về ốc đảo của mình ở Giverny, một ngôi làng cách Paris 50 dặm, và tiếp tục nhiệm vụ Sisyphus [thành ngữ xuất phát từ thần thoại Hy Lạp ngụ ý một nhiệm vụ đòi hỏi nhiều công sức mà không thấy được thành quả] mà ông đã miệt mài thực hiện trong suốt hai thập kỷ trước đó – vẽ hoa súng. Đó sẽ là chu kỳ cuối cùng của ông, một tác phẩm khổng lồ với hình ảnh từ bình minh đến hoàng hôn được vẽ trên 300 foot toan. Sau khi Monet qua đời vào năm 1926, Les Nymphéas [Hoa súng] sẽ được tặng cho nhà nước Pháp và trở thành biểu tượng cho sự bộc phát cuối cùng của trường phái Ấn tượng.
Claude Monet, Nympheas: Sun Effects [Hoa súng: Hiệu ứng Hoàng hôn] (1897). Bảo tàng Marmottan, Paris, Pháp. Ảnh: VCG Wilson/Corbis via Getty Images.
Monet đã mua ngôi nhà ở Giverny vào năm 1890 với giá 20.000 franc (tương đương khoảng 130.000 USD ngày nay) bằng khoản vay từ nhà buôn Paul Durand-Ruel, người đã giới thiệu họa sĩ đến với thị trường Mỹ và thành công rực rỡ. “Tôi đang vô cùng phấn khích”, Monet viết cho người bạn phê bình nghệ thuật Théodore Duret. “Giverny là một nơi kỳ diệu đối với tôi.”
Monet bắt tay vào việc, biến vườn cây ăn quả xung quanh ngôi nhà thành khu vườn thủy sinh mà giờ đây đã đồng nhất với ông. Để làm được như vậy, ông phải đào một lòng chảo và chuyển hướng dòng sông Ru vào khu đất của mình với sự giúp đỡ của những người lao động địa phương, những người đặt biệt danh cho người giám sát nghiêm khắc của họ là “le marquis” [hầu tước]. Đối với hệ thực vật trong ao, Monet đã làm việc với một vườn ươm và nhập khẩu các giống cây trồng trong nhà kính từ Nam Mỹ và Ai Cập.
Ngày nay, khu vườn của Monet được coi là gợi lên một lý tưởng về đồng quê Pháp. Trên thực tế, đó là một tạo tác thuần túy, một phòng thí nghiệm mà họa sĩ đã cẩn thận kết hợp các yếu tố của truyền thống làm vườn từ Anh, Pháp, Hà Lan và Nhật Bản.
Nhân tố cuối cùng trong số đó đã chứng tỏ được tính hữu ích đặc biệt. Chủ nghĩa Nhật Bản đã lên đến đỉnh cao và studio Giverny của Monet tràn ngập hàng trăm bản in Nhật Bản. Những nỗ lực của ông nhằm thi đua với bố cục của Utamaro và Hiroshige thể hiện rõ qua những cây cầu dáng vòm mà ông xây dựng bắc qua ao và tất nhiên là cả hoa súng. Liệu Monet có chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo, tìm thấy trong khả năng tạo hóa cái đẹp từ bùn của hoa súng một ẩn dụ hội họa nào đó không? Điều này không rõ ràng. Monet là một người vô thần đã tìm thấy sự thiền định trong khu vườn của mình.
Điểm hấp dẫn chủ yếu của khu vườn là khả năng điều chỉnh mà nó mang lại cho Monet. Trong ba thập kỷ trước, Monet đã ủng hộ hội họa ngoài trời, ra ngoài đến với thế giới để ghi lại những đống cỏ khô, những người phụ nữ trẻ đội mũ và cảnh biển mờ ảo. Bây giờ, tại Giverny, Monet mang thế giới đến với mình.
Claude Monet, Hoa súng (khoảng 1914-17). Bảo tàng Mỹ thuật San Francisco. Hình ảnh từ Bảo tàng Nghệ thuật Kimbell.
Từ năm 1890 đến năm 1926, Monet đã sáng tác hơn 250 bức tranh về hoa súng. Ông đã tìm thấy chủ đề của mình và sẽ không cần thêm chủ đề nào nữa. Bên cạnh đó, như họa sĩ đã nói trong một cuộc phỏng vấn, “những bông hoa chỉ đi kèm”. Chủ đề thực sự là thứ thất thường được gọi là ánh sáng, mà Monet nói rằng cứ sau bảy phút lại thay đổi ở Giverny.
Mối bận tâm với ánh sáng này tăng lên theo tuổi tác. Những bức tranh hoa súng đầu tiên của Monet có các yếu tố khá thông thường của tranh phong cảnh, chẳng hạn như khung hình được lựa chọn cẩn thận và đường chân trời. Đến năm 1909, Monet đã thay đổi hướng đi một cách triệt để, góc nhìn hẹp hơn, bầu trời phần lớn bị loại khỏi bức tranh và chỉ xuất hiện dưới dạng hình ảnh phản chiếu, cái mà “đã trở thành nỗi ám ảnh”, như Monet nói với Gustave Geffroy.
“Grande Decoration” [Trang trí cỡ lớn] của ông, như Monet gọi những bức tranh tường-sang-tường bắt đầu vào năm 1914, đã tiến xa hơn nữa. Ông đã làm việc với chúng cho đến khi qua đời, xếp lớp sơn này lên lớp sơn khác theo một chuỗi mờ, loang và mới mẻ đến mức theo thời gian, chúng được coi là điểm khởi đầu cho phong cách trừu tượng của Jackson Pollock và Mark Rothko.
Bài viết của Richard Whiddington
Nguồn: Artnet
Lược dịch bởi Viet Art View