Năm 1951, cuộc kháng chiến chống Pháp đã sang năm thứ năm. Trường Mỹ thuật lập lại trong chiến khu Việt Bắc do Tô Ngọc Vân làm hiệu trưởng, đã kết thúc tốt niên học đầu của Khóa Kháng chiến.
Mùa hè năm ấy, sau một đợt thực tập sáng tác và triển lãm phục vụ nhân dân thị xã Lào Cai vừa giải phóng, học sinh được nghỉ một tháng. Chúng tôi, bốn người gồm anh Vân, hai cán bộ giảng dạy và một trưởng lớp, họp thành một đoàn, đi thăm lại và lấy tài liệu ở mấy nơi căn cứ cách mạng.
Ra đi từ Tuyên Quang, chúng tôi qua làm việc ở Đình Cả, Bắc Sơn, rồi đi tiếp sang Bình Gia, Văn Mịch, tới Đồng Đăng, trở về qua Lạng Sơn. Chương trình đã định khi ra đi, được thực hiện tốt. Cảnh đẹp, người hiền, anh em tràn đầy phấn khởi, ghi chép được nhiều. Chuyến đi khá vất vả, có những buổi đang trên đường, một hai anh lên cơn sốt, nhưng vẫn không chịu ngừng lại. Màn của người khỏe tập trung lại cuốn tùm lum cho người ốm. Bệnh nhân, răng đánh lập cập, run rẩy vẫn chống gậy đi. Cứ luân phiên nhau như vậy, anh nào cũng đều nộp đủ thuế cho “thần sốt”, ít ra là một lần! Nhưng qua cơn rét run, dứt cơn nóng toát mồ hôi; hồi lại, lại vẽ say sưa đến không biết mệt!
Tô Ngọc Vân ở chiến khu Việt Bắc, khoảng 1948-1949.
Bức ảnh cuối cùng Tô Ngọc Vân chụp cùng gia đình trước khi đi lên chiến dịch Điện Biên Phủ, 1954
Nhớ lại anh Vân dạo đó: Con người vóc dáng nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, giàu nghị lực. Đầu anh to, vầng trán dô cao dưới chiếc mũ tai bèo, cặp mắt to cứ sáng rực khi chăm chú quan sát. Bàn tay anh nhỏ, những ngón khum khum, run run đưa nét chì trên giấy vẽ. Một thỏi chì than đã mòn chỉ còn hơn đốt ngón tay cắm vào một mẩu ống sậy; một mảnh tẩy chì vẹt mòn còn vừa bằng cái vỏ hến, góc dùi lỗ luồn một sợi dây gai lúc nào anh cũng đeo tòn ten ở cúc áo sơ-mi, trước ngực… Những “bảo vật” ấy anh Vân chi chút lắm. Hoàn cảnh chiến tranh, một cây bút chì than, quả quý như vàng. Cứ khi nghỉ, anh Vân lại rút mẩu bút chì ra ngắm nghía, xuýt xoa xem nó mòn thêm bao nhiêu và còn làm bạn với mình được bao lâu nữa?
“Màn trời chiếu đất”, nấu ăn trên đường, nhưng thỉnh thoảng gặp một bản làng gần, rẽ vào, là chúng tôi lại được chất tươi thay bữa cho thịt vụn rang mặn, rau tàu bay; rồi nào vẽ cho một ông ké, một bà mế, để được nhờ con cháu các cụ làm mẫu. Tình đồng bào, cán bộ, lưu luyến chẳng muốn rời đi…
Về môn bếp núc, anh Vân cũng là tay khá thạo nên khi được bà con cho chất gì tươi, anh em dành ưu tiên cho anh cái việc “chế biến” món ăn cho đoàn. Tìm một nơi thuận tiện, kín đáo, để tránh máy bay giặc. Đôi khi gặp một khe suối cỏ cây chen đá, sơn thuỷ hữu tình, thì cái việc bếp núc của cuộc đi vẽ thật quả là sang! Và thường những khi đó, thế nào anh em cũng lại được nghe giọng run run khe khẽ của anh ngâm một câu thơ, rồi thể nào sau cũng tiếp bằng “… đây lắng hồn núi sông ngàn năm” mấy câu trong bài hát “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi mà anh rất thích. Và mỗi lần như vậy là dịp để chúng tôi nhắc nhớ lại bao kỷ niệm về thành phố thân yêu, về bè bạn, về tình đời, về những ngày cùng nhau đi cứu đói, cùng nhau vẽ áp-phích trong không khí sôi nổi những ngày tổng khởi nghĩa; nhất là với anh Vân, chính bài hát “Người Hà Nội” đã cho anh cảm hứng để vẽ bức tranh “Hà Nội vùng lên” vào năm đầu kháng chiến.[…].
Nhiều nơi, từ Trung du lên Việt Bắc, người ta đã gặp anh họa sĩ nhanh nhẹn vui tính ấy, khi thì vẽ tranh cổ động kháng chiến trên một mảng tường phố, khi làm hóa trang, trình bày cho một sân khấu lưu động, hoặc khi mài đá lăn lô in tranh truyền đơn dưới tán lá rừng dày đặc, khi làm Trưởng đoàn Văn hóa Kháng chiến cũng như khi chạy lo tổ chức lại Trường Mỹ thuật (1949-1950)… Cứ lúc nào hơi rảnh là anh lại luôn tay với mẩu chì, cuốn sổ con thường xuyên mang theo trong xắc-cốt ghi chép người, cảnh vật trong sinh hoạt hàng ngày.
Chiêm Hóa 1951. Đại hội Văn nghệ. Các văn nghệ sĩ kháng chiến tham gia ký “Công ước Hòa bình Thế giới”. Người đang ký là Tô Ngọc Vân.
Sống giữa lòng nhân dân, cùng chung những vui buồn với con người bình thường, chất phác, những chiến sĩ, những người lao động cần mẫn, đã đưa lại cho Tô Ngọc Vân cảm hứng sáng tác đề tài mới: “Hà Nội vùng lên”(1948), “Tản cư trong rừng”, “Giặc đến giặc đi”(1949), “Nữ y tá” (1949)…, làm trong mấy năm đó đã báo hiệu sự chuyển biến bước đầu của anh. Đề tài, đối tượng vẽ đã đổi khác, tiết tấu năng động rộn ràng, chiều hướng đi vào khắc họa tính cách, động dung nhân vật… là những nét mới mẻ. Tuy nhiên, đó đây, đôi khi còn lưu lại những nét hình quen thuộc, sắc thái ưu du của anh thời trước cách mạng, nhất là phong thái người đàn bà thành thị. Có thể nói: giữa cảm xúc tạo hình, giữa tư chất sáng tạo nghệ thuật của anh với nội dung mới đang còn có chỗ chưa ăn khớp.
Đối tượng nghệ thuật của anh đã đổi khác rồi. Anh đến với đối tượng mới ấy với cả niềm chân thành, song những nếp quen, những thích thú, thưởng thức khá phức tạp trước nguyên mẫu trong môi trường xưa của anh, giờ đây lại chính là trở ngại không ít cho anh khi biểu hiện những con người lao động trong môi trường mới với những tương quan xã hội đang biến chuyển mạnh mẽ.
Có thoát ra khỏi những nếp cảm nghĩ, cách làm quen thuộc cũ, để tạo cho mình cái nhìn phù hợp đối với thực tế khách quan mới có thể chuyển hóa thật sự. Chính trong sáng tạo nghệ thuật của anh qua thực tiễn đời sống và quá trình tìm tòi thể nghiệm trong mấy năm, đã chứng minh anh nhận thức ra điều đó. Rồi tiếp trải qua những cuộc tranh luận về những vấn đề “tuyên truyền và nghệ thuật”, “trước mắt và lâu dài”… càng củng cố cho anh nhận thức mới, thấy rõ hơn sai lầm của quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” xưa kia.
Tô Ngọc Vân – Xưởng quân giới. 1951. Sơn dầu trên giấy can
Tô Ngọc Vân – Đèo Lũng Lô. 1954. Màu nước
Cuộc đấu tranh với chính bản thân mình không phải dễ dàng trong ngày một ngày hai, mà khi âm ỉ, khi sôi động, nó gay go còn hơn việc phấn đấu vượt qua khó khăn gian khổ để thích nghi với hoàn cảnh khách quan của cuộc sống kháng chiến trường kỳ.
Nhớ lời Hồ Chủ tịch dạy trong buổi Người đến thăm lớp nghiên cứu tình hình nhiệm vụ mở cho giới văn nghệ cuối năm 1950: “Có quyết tâm và tín tâm thì việc khó khăn mấy cũng làm được…” Cũng như ý kiến về sáng tác của Người viết trong thư gửi anh chị em họa sĩ vào dịp Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc cuối năm 1951: “Về sáng tác, thì cần hiểu thấu, liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân. Như thế mới bày tỏ được tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh thần ấy”.
Qua những năm dài chiến đấu, tự rèn luyện trong hoạt động, liên hệ với thực tiễn của anh chị em nghệ sĩ thì đúng như điều Bác đã dạy bài học về quyết tâm và tín tâm được thấm nhuần đã đưa lại cho chúng tôi kết quả rõ ràng; và trường hợp anh Vân có thể nói là một tấm gương tiêu biểu cho ý chí bền bỉ phấn đấu tự thay đổi mình để thay đổi nghệ thuật của con người nghệ sĩ trí thức tiểu tư sản đi theo cách mạng; song còn rơi rớt ảnh hưởng tự do chủ nghĩa với quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật”…
“Học kết hợp với hành”, điều anh nhắc nhở học trò của mình, cũng là điều mà chính bản thân anh tự thực hiện.
Những chuyến đi ngoài thực tế đời sống nhân dân lao động của cả thầy và trò sáng tác và phục vụ ngay tại chỗ, gắn bó mật thiết hơn giữa công chúng và nghệ sĩ đã đưa lại những kết quả tốt đẹp. Đặc biệt là chuyến đi dài ngày mà anh tham gia như một đội viên trong một đội công tác phát động cải cách ruộng đất, về một vùng nông thôn thuộc Vĩnh Phú (Vĩnh Yên và Phú Thọ-TCMT) nơi mà sau đó anh còn trở lại nhiều lần. Thâm nhập đời sống người nông dân lao động qua “ba cùng”, hiểu thấu về những nỗi cơ cực của người dân cày không có ruộng, đồng thời cũng khám phá ra những đức tính tốt đẹp của họ, đã đưa lại cho anh ấn tượng sâu sắc và kết quả thu được trong nghệ thuật của anh là sự đổi mới thật nức lòng. Tuy chỉ là nghiên cứu ghi chép, nhưng anh đã truyền được vào trong đó cảm xúc chân thật của mình đối với đối tượng sáng tác mới ấy. Anh thấy ra được tính cách, và nhất là phẩm chất cao đẹp của những con người nông dân đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Với nghề nghiệp sẵn vững vàng của anh, qua những nét màu vẫn nhã thú và trong sáng, khỏe khoắn, giản dị mà trữ tình, nghệ thuật của anh đã đi đến hiện thực, đây là vào năm 1953.
Chân dung Tô Ngọc Vân do Lê Lam vẽ với chữ ký của một số họa sĩ Khóa Kháng chiến.
Tô Ngọc Vân – Bừa trên đồi. 1953. Bột màu
Đầu năm 1954, Tô Ngọc Vân lại lên đường trong một chuyến đi mới. Lòng đầy tin tưởng, hào hứng, trong bữa liên hoan tiễn đưa, anh còn đề nghị giao ước thi đua giữa người đi với người ở. Anh muốn được trực tiếp dự vào trận chiến đấu đang thời kỳ ác liệt trên chiến trường Điện Biên. Nhưng tình hình chiến sự diễn tiến quá nhanh. Quân ta thắng giòn giã, bắt sống Đờ-cát-xtri, mà anh còn đang trên đường đi ! Máy bay giặc Pháp ném bom ác liệt dọc đường lên mặt trận hòng cứu cho quân đội của chúng bị bao vây ở lòng chảo Điện Biên.
Và tiếc thay! Tô Ngọc Vân đã hy sinh trong một trận ném bom của giặc. Được tin chẳng lành này, anh em ở nhà nửa tin nửa ngờ, vẫn cố nghĩ rằng, có thể trong khi bị oanh tạc anh đã tránh được ở đâu đó?
Cho đến khi anh Nguyễn Đình Thi cùng mấy chiến sĩ từ mặt trận về đem theo chiếc ba-lô và cái cặp vẽ bất ly thân của anh, bấy giờ mọi người mới tuyệt vọng!
Chiếc cặp vẽ được bọc cẩn thận trong một tấm ni-lông che mưa. Đúng là của anh Vân rồi! Anh vẫn cẩn thận như vậy xưa nay. Anh có thể gội mưa thà mình chịu ướt chứ không chịu để tài liệu ký họa, đồ vẽ của anh không được bảo vệ chu đáo. Mở chiếc cặp vẽ ấy, thật xiết bao cảm động khi thấy trong tập ký họa quý anh ghi dọc đường, có một bức vẽ với những nét chì rung động, ở góc ghi ngày 15-6-1954. Đó là một cảnh đèo Lũng Lô – bức vẽ cuối cùng của đời anh !!!
Tô Ngọc Vân đã qua đời ! Nhưng lòng yêu nước, yêu nghề, yêu cuộc sống, tính tình hoạt bát vui vẻ, năng động của anh, nhất là ý chí phấn đấu kiên trì tự thay đổi con người của mình để thay đổi tư tưởng nghệ thuật là một tấm gương sáng mãi. Nếu như anh chưa “giữa đường đứt gánh” thì với những tài liệu, những ký họa anh để lại, anh sẽ có thể xây dựng những tác phẩm lớn.
Tô Ngọc Vân, ngoài con người nghệ sĩ sáng tác, còn là một cán bộ có tài tổ chức. Cống hiến của anh trong sự nghiệp xây dựng cơ đồ đào tạo lớp trẻ mỹ thuật, là một đóng góp lớn cho phong trào.
Chính để ghi công anh, giữ gìn kỷ niệm về anh, mà chúng tôi đã lấy tên anh để đặt cho khóa học thứ II và cũng là khóa đầu của Trường Mỹ thuật Việt Nam từ chiến khu trở về Thủ đô giải phóng, sau chiến thắng oanh liệt Điên Biên Phủ.
Khóa Tô Ngọc Vân 1955-1957 là khoá học mang tên một họa sĩ chân chính, một trong những người anh lớn của giới mỹ thuật Việt Nam.
Trần Văn Cẩn
Hà Nội, Xuân 1982
(Trích bài viết “Một họa sĩ chân chính” in trong sách “Nhớ Tô Ngọc Vân”, Tô Ngọc Thành sưu tầm và biên soạn, Nhà xuất bản Mỹ thuật, 2004. Đầu đề do Tạp chí Mỹ thuật đặt)
http://tapchimythuat.vn/my-thuat-hien-dai-viet-nam/to-ngoc-van-nhung-nam-truong-my-thuat-khoa-khang-chien/